ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79
ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79

Nguyễn Vũ Điền d6e174

Tháng 4/1979.

Một buổi tối, trời mưa tầm tã. Vừa ăn cơm xong, định rủ nhau làm vài ván bài thì nghe chuông điện thoại. Anh Lưu nghe máy rồi đốc:

- Khẩn trương. Lệnh Tiểu đoàn truyền xuống đúng 19h hành quân vào Đăng Cum.

Đăng Cum là tên một phum của người Kh'me. Phum này nằm ngay khu vực Mỏ Quạ, cách đường biên giới Căm Pu Chia - Thái Lan khoảng 2km. Năm 1979, sau khi đất nước CPC được giải phóng, lực lượng Pôn Pốt tan rã nhưng chưa bị tiêu diệt, chúng chạy về dọc biên giới CPC - Thái Lan củng cố lực lượng, dựa vào các thế lực bên ngoài, xây dựng hàng loạt căn cứ dọc biên giới làm bàn đạp để xâm nhập nội địa, chống phá cách mạng CPC và chống lại quân tình nguyện Việt Nam. Đăng Cum, cùng với Cao Mê lai, Cao điểm 175 và Hồ Ăm Pin trở thành những căn cứ của địch trên biên giới Bat Tam Boong, và đây cũng là hướng tác chiến chính của Sư đoàn 5 suốt những năm từ 1979 đến khi đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Căm Pu Chia về nước.

Tiểu đoàn vừa rút khỏi Cao Mê lai, bàn giao địa bàn cho e4, trở về nghỉ ngơi được mấy ngày, giờ lại nhận lệnh đánh Đăng Cum, mà lại phải hành quân trong một đêm mưa gió thế này, mệt thật.

Mấy thằng hữu tuyến vội vàng thu dây còn bọn vô tuyến thì kiểm tra máy móc, bật chế độ working, lên sóng. Cuốn vội tăng võng, nhét vào cạnh ba lô phía tiếp giáp với lưng để tránh cái cạnh máy tra tấn lúc hành quân, buộc lại dây ba lô, khoác lên lưng, tôi và thằng Cương Kều khẩn trương xuống K10 theo sự phân công của lão Tiến Xoè - Trưởng mạng.

Đường từ Tà Ben vào Đăng Cum dài khoảng 30 km. Nếu là mùa khô, cự ly này không đáng bận tâm, vì chúng tôi đã hành quân bộ quen rồi. Nhưng trong một đêm mưa gió, nước chỗ nào cũng ngang đầu gối thế này thì việc đến được Đăng Cum quả là không hề đơn giản.

 Trong đêm tối, cả tiểu đoàn bì bõm lội trong nước, người sau bước theo chân người trước, đường hành quân là đường cắt theo phương vị bản đồ nên rất khó đi, chỉ có nhìn vào khoảng tối ở lưng nhau mà dò dẫm. Quần áo ướt sũng dính chặt vào người, lại thêm sức cản của nước và trọng lượng của ba lô, vũ khí, lương thực, máy móc trên lưng, nên những bước chân của lính trở nên nặng trịch, những bàn chân tê dại không còn cảm giác. Hàng quân cứ lầm lũi đi trong đêm mặc trời mưa gió, chốc chốc phía chân trời lại có những vệt chớp sáng loé, biết đó là chớp trời nhưng vẫn ngỡ ánh sáng đầu nòng của pháo địch, theo phản xạ, đôi tai dỏng lên xem đạn nổ hướng nào. Thỉnh thoảng lại có tiếng ngã uỳnh uỵch vì bước hụt, vì vướng phải dây rừng hoặc đường trơn. Những tiếng xuýt xoa cố nén trong cổ họng, đâu đó văng vẳng tiếng chửi thề...

Lầm lũi bước, trí óc tôi lãng đãng nghĩ về những gì đã trải qua từ ngày vào mặt trận, nghĩ về những cuộc hành quân dài như bất tận. Mà cái xứ sở này kể cũng lạ, mùa khô đi cả tuần trong rừng không kiếm được nước, chỉ thấy khộp với le, le với khộp, rừng chỗ nào cũng giống chỗ nào, nếu như không có cái la bàn của mấy lão trinh sát để xác định phương hướng thì kiểu gì cũng lạc. Có lần gặp những con đường bò cắt ngang đường hành quân, chiếc xe bò đôi chạy trên đường mà bụi cuốn theo sau như chiếc T54 đang tăng tốc để vượt qua cửa mở...

Vì vậy, những cuộc hành quân mùa khô ở xứ sở này như những cuộc viễn chinh trên sa mạc. Cát dưới lòng bàn chân bỏng rát và mặt trời chói chang trên đầu càng làm cho những cơn khát trở nên khủng khiếp, nó hành hạ, giày vò tâm can người lính không thể dứt ra được. Đến mùa mưa thì ngược lại, chỗ nào cũng có nước, nước mênh mông khắp nơi, khiến có cảm giác như cả đất nước này đã hoá Biển Hồ. Nước cản bước chân người lính, nước làm cho quần áo, giày tất ướt sũng, hôi xì, khiến da dẻ bợt bạt như xác chết, làm cho nấm hắc lào, ghẻ lở thừa cơ tấn công những cơ thể èo uột của lính.

Đi chừng 2 tiếng, có lệnh “truyền xuống, dừng thưa”.

Khẩu lệnh này có nghĩa là dừng lại nghỉ, nhưng giãn đội hình thưa ra.

Ôi giời ơi, nghỉ thế nào đây, nước ngập ngang đầu gối thì nghỉ kiểu gì?

 Mấy thằng lính bộ binh chống báng AK xuống đất rồi đặt ba lô lên đầu súng, hai tay uể oải giữ lấy cái ba lô, mặc cho nước ngập ngang lẫy cò. Tôi không có súng mà chỉ có ba lô đựng máy nên đành chân co chân duỗi, hai tay ôm lấy một cây khộp bên đường mà gục vào nghỉ, máu dồn xuống cổ chân tê dại. Đúng là nghỉ còn khổ hơn đi.

Chừng 10 phút sau, có lệnh truyền xuống “ tiếp tục hành quân”, đoàn người lại lầm lũi bước đi trong làn nước lạnh.

Lần dừng nghỉ thứ hai thì không ngập nước nữa. Nghe thấy khẩu lệnh “dừng thưa”, những cơ thể rão rợi của lính đổ vật xuống như những gốc cây bị đốn hạ. Quai ba lô vẫn nguyên trên vai bỗng biến thành cái gối mềm mại trong khách sạn 5 sao, mặt đất ướt nhoẹt dưới chân trở thành cái đệm bông ấm áp. Giấc ngủ của lính đến nhanh và sâu kinh khủng.

Không biết tôi ngủ được bao lâu nhưng khi đang ngon giấc thì có ai đó đạp vào chân. Mở mắt ra, nhìn thấy mấy bóng người từ phía sau đi lên, ánh đèn pin quét loang loáng, những tiếng rì rầm nho nhỏ, tiếng va chạm lách cách của súng ống vào thắt lưng bộ đội. Vẫn đang ngái ngủ nên tôi lại nhắm mắt và chẳng quan tâm đến những gì xảy ra xung quanh.

 Bỗng có tiếng quát rõ to, giọng của ông Trạch ở ngay phía trước.

 - Chết rồi, đứt mẹ nó đội hình rồi. Tại thằng này. Đ. mẹ mày, tao mà không tìm thấy đội hình thì tao bắn chết mày.

Ông gầm lên rồi cùng anh trinh sát lần theo dấu vết để lại, dẫn bộ phận phía sau đuổi theo đội hình đi đầu.

Sau này tôi mới biết, thì ra khi dừng nghỉ là lính lăn ra ngủ. Lúc có lệnh tiếp tục hành quân thì thằng Công điếc, anh nuôi của Trung đội thông tin không nghe thấy khẩu lệnh truyền xuống nên cả đội hình phía sau vẫn ngủ ngon lành mà đầu đội hình thì đã đi từ lâu rồi. Tiểu đoàn trưởng Trạch và anh Bùi Tiến btrưởng Trinh sát đi cùng đội hình Tiểu đoàn bộ phía sau thấy nghỉ lâu quá nên sốt ruột ngược lên xem, đến chỗ thằng Công thì mất dấu đội hình, tức quá nên ông túm cổ áo, dí nòng khẩu K54 vào ngực thằng Công mà dọa.

 Kể cũng khổ thằng bé, nó điếc lòi ra mà vẫn bị bắt lính, nhiều khi nói chuyện với nó, quát rõ to mà nó cứ tru miệng lên cười, mà nó chỉ cười chứ chẳng cãi lại ai bao giờ. Ngay cả khi bị Thủ trưởng túm cổ áo, dí súng vào ngực, mắt nó vẫn nhìn trân trân vào nòng súng mà chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Lại nhớ hôm đánh Cao Mê Lai, đạn địch bắn rát quá, nó không nghe được, nhưng nhìn thấy anh em rạp mình tránh đạn, nó hoảng hốt nằm ép mình xuống đất, cái ba lô với nồi niêu xoong chảo lỉnh kỉnh như mai rùa trên lưng loảng xoảng kêu, bàn tay nó cầm cái muôi, cứ cào cào trên nền đất ướt để cố tạo một cái hố đút đầu xuống. Ngồi gần đó, nhìn thấy cảnh đó mà tôi không khỏi buồn cười. Cái bản năng sinh tồn thật mạnh mẽ, nhất là khi cái chết gần kề.

 

***

Khoảng 5h sáng, chúng tôi tiếp cận Đăng Cum. Suốt một đêm hành quân vất vả mà lúc triển khai đội hình chiến đấu, lính tráng lại tỉnh như sáo, mọi mệt nhọc dường như tan biến. Theo kế hoạch tác chiến, đơn vị dàn đội hình và nổ súng đánh chiếm mục tiêu. Các loại hỏa lực thi nhau nhả đạn, những tiếng nổ chát chúa của các loại hỏa khí nghe như một dàn nhạc hỗn độn vì không có nhạc trưởng, những viên đạn vạch đường xé nát màn đêm tĩnh lặng, sáng rực cả bầu trời, mùi khói súng nồng nặc... Bọn địch bị đánh bất ngờ, bắn trả yếu ớt rồi bỏ chạy về bên kia biên giới. Ta chiếm được mục tiêu khá thuận lợi, tiểu đoàn tiến vào Đăng Cum từ nhiều hướng.

 Căn cứ của địch trước đây là một phum khá trù phú vì rất gần biên giới, nhưng dân đã bỏ chạy hết khi bọn Pốt xuất hiện, giờ chỉ còn là một phum trống huơ trống huếch với vài chục nóc nhà xiêu vẹo ẩn dưới những vườn soài đang chín sai trĩu quả, những cây dừa, cây thốt nốt in bóng đen thẫm trên nền trời. Mấy nóc nhà cạnh phum đang cháy đỏ, mùi khói súng vẫn còn nồng nặc.
Chúng tôi tiến vào phum khi trời tang tảng sáng. Vừa đói, vừa mệt nên khi đi ngang qua vườn soài, thấy những quả soài mút rụng trắng gốc cây, tôi với Cương nhặt vội mấy trái, lau qua vạt áo rồi nhét tỏm vào mồm, mút lấy nước, rồi nhả ra cả vỏ cả hạt, chẳng biết quả soài ấy có bị sao không. Thứ nước ngọt ngọt chua chua ấy tan biến trong người khi vừa qua cổ họng.

 

***

Sau trận đánh, kiểm tra lại quân số, Đại đội 11 thấy mất thằng Thọ. Thọ vốn là dân Thành phố, có bố là sỹ quan Việt Nam Cộng hoà, hắn đang học năm thứ ba, khoa hoá ĐHBK Sài Gòn thì đi lính. Khi mới vào đơn vị, Thọ được bố trí ở Tiểu đội hữu tuyến, Trung đội thông tin, nhưng khi biết bố Thọ là sỹ quan ngụy nên Tiểu đoàn chuyển hắn sang K11. Mới vào đơn vị được mấy tháng, lại có vẻ ngoài nhút nhát, ít giao thiệp nên cũng ít người biết nó.

Thọ đi đâu ? Nó chết hay còn sống vẫn là một câu hỏi. Tiểu đoàn cử ngay một tổ quay lại đường hành quân đêm qua tìm nó nhưng cũng không thấy, đành coi như mất tích, chẳng biết số phận nó thế nào.

 Khoảng hai tháng sau, một hôm, anh Lưu giao cho tôi và thằng Cương mang máy ra Sư đoàn ở Sisophon để sửa. Hai thằng mượn được một cái xe đạp của dân. Thằng Cương đạp xe, còn tôi đeo máy, cầm AK ngồi phía sau cảnh giới. Đường từ Tà Ben ra Sisophon là con đường đất dài gần 30 km. Mặc dù ta đã hoàn toàn làm chủ khu vực này, nhưng đây là đường độc đạo để vào SvaiCheck và Thmo’ Puok, nên bọn Pot vẫn thỉnh thoảng phục kích, tập kích và gài mìn gây cho ta rất nhiều thiệt hại.

Lúc hai thằng đèo nhau đi ngang qua phum Macak, nơi chiếc M113 bị cháy trong trận đánh ngày 05 Tết Kỷ Mùi (tức ngày 01/2/1979), thấy một tờ giấy đặt ngay cạnh đường, 4 góc tờ giấy có 4 viên sỏi chặn lên, nhìn thấy chữ Việt Nam, tôi cầm lên đọc. Khi thấy ảnh thằng Thọ mặc bộ đồ rằn ri ở góc trang giấy, tôi hoảng hốt, giục thằng Cương đạp nhanh khỏi phum, ngồi sau focbaga, tôi vội lên đạn khẩu AK, nhìn lướt xung quanh để đề phòng bất trắc.

Cảm giác lúc đó là tất cả những gì xung quanh đều có thể là địch. Những người đàn ông quấn xà rông, vác pơ thao (rìu) kia rất có thể là lính Pốt trà trộn trong dân, những cô gái Kh’me hiền lành đang gánh nước kia, thấy bộ đội Việt Nam vẫn nở nụ cười tươi rói “coong top Viet nam lờ o lá” (bộ đội Việt Nam tốt lằm), có khi vẫn là một lính Pốt nữ trá hình.

Đọc vội tờ truyền đơn, tôi mới hiểu, thằng Thọ không chịu được gian khổ và sợ chết, nên nó đã đào ngũ sang Thái Lan trong đêm hành quân vào Đăng Cum bữa nọ. Nó bị bọn phản động Việt Nam lưu vong bắt được. Chúng viết truyền đơn kêu gọi: “ Hỡi các chiến binh Cộng sản, hãy nêu gương anh Đào Quang Thọ, con ông Đào Văn Hai và bà Lê Thị Út, ..., bị bắt lính và đưa sang xâm lược Cam Pu Chia để hy sinh vô nghĩa. Anh đã nhìn thấy lẽ phải nên quay súng về với chính nghĩa quốc gia...”.

Mồ hôi tôi toát ra đầy lưng, cảm giác như những nòng súng hai bên đường đang rê theo hai thằng lính đơn độc với một chiếc xe đạp trên con đường dài hun hút giữa xứ sở đầy bí ẩn này. Sau này, anh Nguyễn Tiến Dũng, một người lính cùng trung đội với Thọ nói rằng, ngay sau đêm mất tích, thằng Thọ lên Đài BBC kêu gọi bộ đội ta hãy phản chiến, đào ngũ để được an toàn.

Thật hú vía.


***

Đơn vị chốt lại Đăng Cum. tôi với thằng Cương được bố trí dưới gầm sàn của một ngôi nhà ngay cạnh c bộ K10. Ngay cạnh nền nhà là một chiếc hầm mới đào ngập đầy nước.

Đây là một phum rất gần biên giới, nên địch có thể bắn pháo hoặc tập kích bất cứ lúc nào. Vì vậy hai thằng mắc hai cái võng chồng lên nhau vào hai cột nhà ngay sát miệng hầm, tôi nằm trên, thằng Cương nằm dưới. 

Đêm hôm sau, vừa thiu thiu ngủ thì nghe thấy hai tiếng đề pa pháo ở hướng tây vọng tới, đang dỏng tai lên nghe thì thấy “oàm, oàm”, hai tiếng nổ lộng óc của pháo 105 ly từ Thái Lan bắn sang nổ ngay giữa phum. Quả đạn nổ quá gần khiến ngôi nhà tôi ở kêu răng rắc như muốn sập, mấy tàu lá dừa bị đạn địch tiện đứt cạnh đó rơi rào rào. Với phản xạ cực nhanh của lính chiến, ngay sau tiếng nổ hai thằng đã nhảy xuống cái hầm ngập nước, thò mỗi cái cổ lên nhìn. Dễ đến 5 phút, không thấy tiếng nổ nào nữa, chúng tôi mới lóp ngóp bò lên miệng hầm, quần áo đầy bùn đất và ướt như chuột lột.

Đúng lúc ấy, thằng Cương lẩm bẩm:

- Anh Điền, em muốn đi cầu, giờ làm thế nào?

Nó bị đi ngoài suốt từ hôm qua đến giờ. Tại mấy quả soài mút đấy. Ban đêm, chẳng nhìn thấy gì nên nhặt được soài rụng là chén. Ban ngày, khi bóc ra mới biết quả nào cũng đầy sâu, những con sâu màu trắng đục nhung nhúc bò sau lớp vỏ soài, hàng chục người bị như nó. May mà bụng dạ tôi tốt nên không sao.

Đi xa thì sợ pháo bắn chạy không kịp, mà ngồi gần thì thối, ai chịu được. Tự nhiên, tôi nảy ra sáng kiến, liền cầm cái xẻng, xúc ít đất đặt cạnh chỗ nó ngồi rồi bảo nó:

- Mày ỉa vào xẻng này này, xong rồi hất ra xa, thế là ổn.

Nó nghe theo, ngồi ỉa ngay trên cái xẻng.

 Và tôi, lần đầu tiên thấy một người đi vệ sinh theo kiểu chẳng giống ai. Có lẽ chỉ có lính chiến mới có sáng kiến độc đáo này.

 

***

Một tháng chốt ở Đăng Cum, cứ ngày nghỉ, đêm đi truy quét. Có đêm, trinh sát dẫn chúng tôi lên Mỏ Quạ - đoạn biên giới lồi sang đất Thái Lan như một cái mỏ chim- giữa đồng không mông quạnh, nhìn sang đất Thái thấy điện đóm sáng choang, tiếng xe máy xen lẫn tiếng xe cơ giới hạng nặng chạy trên đường ầm ĩ và tiếng hát, những điệu nhảy lăm thon phát ra từ những cái loa thùng của quán cafe cách đó mấy trăm mét mà thấy nhớ phố phường Hà Nội. Cuộc sống vẫn tuôn trào mà đời lính sao gian nan đến vậy.

Chiến tranh đã biến những thằng sinh viên như tôi, những đứa con thành phố như Cương Kều, Hải Lé, Tiến Xoè... từ khắp mọi miền đất nước của Mẹ Việt Nam tụ hội ở cái xứ sở hoàn toàn xa lạ này, để đến hôm nay, những gì đã xảy ra cách đây bốn chục năm qua vẫn như mới hôm qua.

 

Tin tức khác

Tin mới
Hoạt động

Quảng cáo

backtop