NGÃ TƯ XƯƠNG MÁU
Nguyễn Vũ Điền d6e174
Có một Ngã tư không hề có trên bản đồ, kể cả hôm nay, mặc dù có công nghệ 4.0 hỗ trợ, khi gọi trên Google map cũng chẳng nhìn thấy, nó không hề xuất hiện, không được gọi tên, mà được hình thành bởi những bước chân của những người lính, bằng máu xương của những người con đất Việt trên miền biên viễn.
Đầu tiên, lính ta gọi nó là Ngã tư Đường buôn, Ngã tư Đầu lọc nhưng sau này những người lính khắc khoải gọi nó là Ngã tư Xương Máu. Dù gọi nó là gì, thì Ngã Tư này vẫn là niềm đau, là nỗi uất hận trong trái tim những người lính Trung đoàn 174 đã từng sống, từng chiến đấu ở nơi này cách đây 40 năm trước.
Cuối tháng 7/1979, qua nắm tình hình, trinh sát tiểu đoàn phát hiện, phía đông phum Kh’vao khoảng 14 km, xuất hiện 2 con đường mới, cắt ngang đường mòn nối Kh’Vao với Đăng Cum. Hai con đường này do dân tự mở để sang Thái Lan buôn bán. Hàng vạn người dân từ khắp các nơi đổ về Svaichek rồi theo đường này sang Thái. Lúc đó đang giữa mùa mưa, người dân đi lại rất đông nên nên hai con đường càng ngày càng to ra trong một thời gian rất ngắn.
Qua công tác tình báo phát hiện, đây chính là giai đoạn Mỹ mở cầu hàng không, tổ chức viện trợ cho dân tỵ nạn chiến tranh của Cam Pu Chia. Nhưng chúng không viện trợ qua Chính phủ Cam Pu Chia, mà lấy biên giới Thái Lan làm nơi thực hiện, nhằm lôi kéo người Cam Pu Chia tham gia các tổ chức phản động chống lại Nhà nước Cam Pu Chia.
Người dân Cam Pu Chia khi đó đang rất đói khổ. Sau những năm lưu lạc khắp nơi do bị Pôn Pốt dồn đuổi, họ trở về quê nhưng hầu như trong tay không còn một thứ tài sản gì đáng giá, cái gì đối với họ lúc này cũng rất cần thiết. Chính điều đó làm cho họ buộc phải liều mình sang Thái Lan để nhận viện trợ và mua thêm hàng hóa về buôn bán kiếm sống, dù biết cái chết luôn rình rập bởi con đường mở giữa hai làn đạn, giữa những bãi mìn, giữa cái sống và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.
Qua biên giới, họ được tổ chức Trăng Lưỡi liềm đỏ của Liên hợp Quốc, các tổ chức từ thiện của Mỹ và Thái Lan cấp cho gạo, dầu ăn, đậu phộng. Ngoài ra, rất nhiều người mang vàng sang để mua thêm các thứ nhu yếu phẩm khác như thuốc lá, vải vóc, xà phòng, mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh và nhiều thứ khác nữa về nước để buôn bán mưu sinh.
Lợi dụng việc người dân qua biên giới nhận viện trợ và buôn bán, bọn tàn quân Pôn Pốt và các tổ chức phản động cũng trà trộn trong dân để vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, quần áo và súng đạn tiếp tế cho bọn tàn quân đang ẩn náu trong nội địa. Nhiều toán cướp có vũ trang cũng xuất hiện trên con đường này để trấn lột hàng hóa của dân, thậm chí chúng đã sử dụng cả vũ khí bắn chết hàng chục người dân một lúc để cướp tiền, vàng và hàng hóa.
Đây chính là những vấn đề phức tạp mới nảy sinh thuộc địa bàn quản lý của Trung đoàn.
Để ngăn chặn các hoạt động của địch, tiêu diệt các toán cướp và bảo vệ nhân dân, từ tháng 8/1979, tiểu đoàn tôi liên tục tổ chức cho các đại đội thay phiên nhau lên phục kích, chốt chặn trên khu vực ngã tư này, tạo điều kiện cho nhân dân buôn bán, làm ăn và ngăn chặn các hoạt động của địch.
Nhưng trong hai ngày 03/9 và 02/10/1979, tại khu vực Ngã tư Đường Buôn đã nổ ra 2 trận đánh không cân sức giữa bộ đội ta với bọn Para - một tổ chức phản động của Cam Pu Chia được Mỹ và Thái Lan hậu thuẫn - hơn 40 chục người lính của K10 (tiểu đoàn 6) và K5 (Tiểu đoàn 5) đã mãi mãi không trở về.
***
Tôi thân với Cảnh từ khi hai thằng còn đóng quân ở Kim Bảng, Nam Hà. Hai thằng cùng nhập ngũ một ngày, cùng lên một chuyến tàu vào Nam rồi cùng về một tiểu đoàn, nên mặc dù Cảnh được biên chế ở K10, còn tôi về thông tin, nhưng mỗi khi tôi đi máy cho K10, hoặc K10 bố trí gần đội hình tiểu đoàn bộ là tôi lại xuống chơi với Cảnh.
Đêm ấy là đêm 02/9/1979, tôi đến hầm Cảnh chơi. Hai thằng nằm trên hai chiếc võng, đầu võng của Cảnh dựng một khẩu B41 vẫn lắp nguyên viên đạn trên dựa vào gốc cây. Bộ đội trên chốt thì súng ống lúc nào cũng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Chẳng có gì mời nhau, Cảnh rót nước từ bình tông ra hai cái bát sắt tráng men, rồi mỗi thằng điếu thuốc rê, chúng tôi hỏi thăm nhau và kể cho nhau nghe những câu chuyện quê nhà.
Cảnh sinh ra trong một gia đình nông dân ở Đông Anh, Hà Nội, nhà Cảnh khá đông anh em và Cảnh là thứ 6. Trước khi đi bộ đội, Cảnh là công nhân một nhà máy ở Tó. Tôi đã biết phố Tó - thị trấn của huyện Đông Anh theo cách gọi thời đó - từ ngày đi đi thực tập nên rất hiểu địa hình nơi này.
Đêm ấy, trong ánh trăng non đầu tháng, Cảnh kể cho tôi nghe về gia đình mình, về mối tình của cậu ấy với một cô công nhân Nhà máy Thiết bị điện Đông Anh. Đến nay, tôi không còn nhớ tên cô người yêu của Cảnh nữa, chỉ nhớ mang máng là cô Hồng hay Nga gì đó. Nhưng đó là một mối tình thật đẹp, thật nên thơ. Cảnh cho tôi xem những bức thư của người yêu, rồi mở chiếc ba lô, lấy chiếc khăn mùi xoa thêu đôi chim bồ câu đang ngậm mỏ vào nhau và dòng chữ: "Em yêu Anh" được thêu rất đẹp cho tôi xem, rồi cậu ta lại gấp cẩn thận những lá thư của người yêu trong chiếc khăn mùi xoa, cất trong góc ba lô.
Dù chưa một lần được gặp người yêu của Cảnh, nhưng nghe câu chuyện cậu ấy kể, tôi cứ hình dung một cô gái thôn quê rất đẹp, tóc dài ngang lưng, mặc bộ đồ công nhân, đang trao cho bạn tôi chiếc khăn tay này...
***
Sáng 3/9, K10 đi phục kích tại Ngã tư Đường Buôn. Chúng tôi chia tay nhau và Cảnh khoác khẩu B41 nhập vào hàng quân, dần xa.
Trước đó, việc phục kích, tuần tra trên đường buôn vẫn diễn ra thường xuyên. Các đơn vị được phân công ra đi phục thường trở về lúc 5,6 giờ chiều. Mỗi lần về, anh em lại có quà cho những người ở nhà, khi là bao thuốc, khi là cái bật lửa ga, có lúc là mấy gói mỳ tôm… Những ngày ấy, mặc dù Chính phủ Cam Pu Chia chưa phát hành tiền, nhưng dân trao đổi với nhau bằng nhiều phương tiện thanh toán: Tiền Việt, tiền Batt của Thái Lan, đô la Mỹ và cả vàng nữa.
Vì vậy, khi lên đường buôn, bộ đội ta có thể mua được hàng hóa bằng phụ cấp của mình. Cũng vì vậy, bộ đội được sử dụng khá nhiều loại hàng hóa Thái Lan thời ấy. Thuốc lá Gold Citi, Krong Thip, Sa Lem, Sa Mit và cả thuốc lá nhãn hiệu 111 và 555 nữa. Các loại mỳ tôm Thái Lan, thuốc đánh răng, xà phòng thơm, bật lửa ga, bật lửa zippo…bắt đầu được bộ đội sử dụng khá phổ biến. Trong những thứ hàng hóa ấy, thuốc lá Samit là thứ được lính ưa chuộng nhất, ngon kinh khủng, ngon hơn tất cả các loại thuốc lá mà tôi được hút từ đó đến nay.
Khoảng hơn 4 giờ chiều ngày 03/9, từ hướng đường buôn bỗng rộ lên tiếng súng. Âm thanh của các loại súng nổ rền không dứt nhưng ở rất xa khiến ai cũng nóng ruột nhưng không biết chuyện gì đã xảy ra với K10. Vì chỉ bố trí một đại đội đi phục kích nên Tiểu đoàn không bố trí vô tuyến đi cùng, vì vậy lúc đó chỉ đoán già đoán non rằng K10 đã gặp địch, nhưng tác chiến thế nào thì không ai đoán định được.
Quãng đường từ vị trí của Tiểu đoàn đến khu vực tác chiến cũng rất xa, nên không thể chi viện được, các anh trên Ban Chỉ huy rất nóng ruột nhưng cũng đành đợi tin chứ không thể làm gì hơn.
Đêm hôm đó, cả đơn vị không ngủ, lo lắng, sốt ruột đợi K10 trở về, nhưng mãi 11h đêm mới thấy mấy anh em hớt hải chạy về, họ không mang súng ống gì, mặt mũi đầy máu, quần áo rách te tua. Anh em báo tin là cả ngày đại đội phục kích trên đường buôn không thấy địch đâu nhưng đúng lúc anh em tháo súng, chuẩn bị rút về thì bị khoảng hơn 200 tên Para tấn công, bao vây. Bọn chúng dàn hàng ngang đánh xuống. Với lực lượng áp đảo, chúng hình thành thế bao vây, khép chặt đại đội vào khoảng cách giữa hai ngã tư và nổ súng truy sát quyết liệt.
Cả đại đội đã chiến đấu rất dũng cảm, anh em đã đánh giáp lá cà với chúng. Dùng mọi thứ vũ khí mang theo để ngăn cản chúng tiến xuống, bảo vệ nhau… nhưng do địch quá đông và ở thế chủ động nên ta không chống lại được, bị địch xé lẻ lực lượng và hầu hết các chiến sỹ không chạy thoát, bị chúng bắn chết khá nhiều. Một số anh em thoát khỏi vòng vây nhưng chạy lạc trong rừng không biết sẽ tìm về đơn vị khi nào.
Nghe tin đó, ngay trong đêm cả tiểu đoàn tức tốc hành quân đến Ngã tư. Đoàn quân đi xuyên đêm mà lòng ai cũng nặng trĩu lo âu. Dưới ánh trăng xuông, chẳng ai nói với ai lời nào.
Nơi Đại đội 10 chiến đấu và bị bao vây chỉ cách biên giới Thái Lan khoảng 5 km. Đó là những cánh rừng khộp lớn, mọc ken giữa những khóm le dại um tùm. Những cây le giống những cây trúc, cao ngang đầu người mọc sít vào nhau dày đặc. Địch đã rút, cả khu vực nơi xảy ra trận huyết chiến chỉ còn là những vạch ngang vạch dọc của những thân le đổ xuống bởi người chạy.
Do đêm tối và để bảo đảm bí mật, sợ địch phục kích vì biết ta sẽ đi lấy xác, nên chúng tôi không dám bấm đèn, phải mò mẫm tìm kiếm, nhưng tìm suốt đêm hôm ấy vẫn chẳng thấy ai. Đến gần sáng, Tiểu đoàn phải rút quân, về bố trí lực lượng nghỉ tạm tại phum Đăng Cum, cách địa điểm tìm kiếm khoảng 5km.
Suốt ba đêm liền, cứ ngày nghỉ, đêm lại lần ra Ngã tư, tìm khắp các cánh rừng quanh đó mà tuyệt nhiên không thấy một ai, không thấy một dấu hiệu gì khác thường, không biết anh em ta đang ở nơi nào.
Đêm thứ tư, Tiểu đoàn tiếp tục lên đường, lần này thì khác những đêm trước, khắp nơi có mùi tử khí, mùi xác chết đang phân hủy lan tỏa rất đặc và vô cùng khó chịu. Sáng sớm hôm đó, cứ chỗ nào có mùi thối là lại tìm thấy một xác liệt sỹ. Những cơ thể trương phình, những khuôn mặt đen đúa, biến dạng với giòi bọ bò nhung nhúc được anh em vận tải cất bốc, đưa vào những chiếc túi tử sĩ, rồi đưa lên võng để khiêng.
Mười bảy xác liệt sỹ được tìm thấy nhưng không thể nhận dạng được ai nữa. Mệnh lệnh phát ra, cứ 3 người khiêng một võng. Lực lượng còn lại đảm bảo cảnh giới, sẵn sàng đánh địch tập kích.Tiểu đoàn trưởng Trạch nổi tiếng là người gan dạ bởi ông đã chứng kiến rất nhiều đồng đội hy sinh qua hàng trăm trận đánh mà ông từng tham gia từ những năm đánh Mỹ. Nhưng lúc ấy, ông cũng không nén được tiếng khóc khi thấy xác anh em được tìm thấy. Ông vừa khóc, vừa túm ngực áo một thằng lính vì không thể chịu nổi mùi tử khí lấy tay bịt mũi. Ông chỉ tay vào mặt người lính kia và nói lớn :
- Tao cấm. Cấm tất cả chúng mày, không đứa nào được khạc nhổ, không đứa nào được bịt mũi, bịt miệng khi khiêng anh em về. Đồng đội chúng mày đấy. Nghe rõ chưa ? Đứa nào không tuân lệnh, tao bắn.
Người lính kia và tất cả anh em chúng tôi đều khiếp sợ bởi chưa bao giờ thấy sự chết chóc lớn như thế, chưa bao giờ thấy xác chết gần đến thế, chưa bao giờ cảm thấy khủng khiếp đến thế này. Nhưng lời tuyên bố của Tiểu đoàn trưởng khiến chúng tôi tĩnh tâm lại và chúng tôi không còn cảm thấy ghê sợ nữa, mùi tử khí, váng vất quanh đây tự nhiên tan biến, và chúng tôi đã khiêng anh em về đơn vị với lòng thương cảm rất chân thành.
Đường từ Ngã tư về Kh’vao dài 14 km. Tôi cùng 2 chiến sỹ nữa, khiêng xác một đồng đội hy sinh. Người nằm trên võng đang trong giai đoạn bị phân hủy mạnh, da đầu đã toạc khỏi hộp sọ, để lộ mảng đầu trắng ởn, giòi bọ bò thành dây khắp người...Chúng tôi cứ lặng lẽ khiêng về mà lòng đau nhói.
Sau khi kiểm tra danh tính liệt sĩ thì trong số 17 chiến sỹ ta lấy được xác hôm ấy, không có Cảnh. Cảnh và ba chiến sỹ nữa vẫn chưa tìm thấy xác.
Mãi ngày 20/10/1979, tức là 49 ngày sau khi trận đánh ở Ngã tư đầu lọc nổ ra, xác của Cảnh và các chiến sỹ cùng hy sinh mới được tìm thấy khi trung đoàn công binh của sư đoàn làm nhiệm vụ gài mìn xây dựng phòng tuyến biên giới dọc biên giới Thái Lan. Anh và các đồng đội của anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi các anh bị thương, bị địch bắn chết và chặt xác, ném lung tung trong rừng, cách Ngã tư khoảng 4km. Xác của các anh chỉ còn lại là những bộ xương khô.
Không biết có điều gì thuộc về tâm linh không, nhưng con số 49, với phong tục cúng cơm của người Việt cho những người đã chết khiến tôi liên tưởng có gì đó với việc tìm thấy xác anh và đồng đội…
***
Năm 1983, khi còn đang học tại trường Sỹ quan Tăng- Thiết giáp tôi đã về Đông Anh hỏi tìm nhà Cảnh nhưng do thông tin không đầy đủ, tôi mang máng quê Cảnh là Vân Trì, nên tôi tìm về Vân Trì để hỏi nhưng không thể tìm được, đành phải quay về.
Ngày 17/8/2018, khi về Đông Anh dự Lễ kỷ niệm 69 năm ngày thành lập Trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng) và kỷ niệm 40 năm nhập ngũ, tôi mới được anh Trần Văn Thử, một đồng đội cùng thời ở K9, hiện là Phó Bí thư Đảng ủy xã Nam Hồng đưa về thăm gia đình Cảnh ở thôn Đoài, xã Tàm Xá, huyện Đông Anh, Hà Nội. Khi đó tôi mới biết, do không nhớ tên xã nên trước đây tôi không tìm được gia đình anh.
Bước chân đến nhà Cảnh sau 40 năm anh nhập ngũ và 39 năm kể từ ngày anh mất, tôi không giấu được cảm xúc. Mẹ anh, một bà mẹ 89 tuổi nhưng còn rất minh mẫn, đôn hậu và khỏe mạnh, cùng mọi người trong gia đình rất vui khi biết chúng tôi là những người lính cùng chiến đấu với Cảnh năm xưa về thăm. Gia đình đón anh em tôi như đón những đứa con đi xa mới trở về.
Xin phép mẹ được thắp cho anh một nén nhang trên bàn thờ của gia đình, ngắm bức hình anh chụp trước khi đi bộ đội và tấm Bằng Tổ quốc ghi công, ghi tên Liệt sĩ Lê Văn Cảnh, hi sinh đúng ngày mà hàng chục anh em đã ngã xuống trên Ngã tư xương máu. Rồi chúng tôi tìm đến Nghĩa trang Liệt sỹ của huyện, thắp hương cho anh và các chiến sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc. Mộ anh nằm giữa hàng bia mộ của các liệt sỹ được an táng tại quê nhà…
Chỉ vậy thôi mà tôi thấy ấm lòng, đã thỏa nguyện bởi đã trả được món nợ trong lòng mình suốt gần 40 năm nay với người bạn cố tri nơi chín suối.
Nhắc lại một kỷ niệm này ấy để thấy rằng hôm nay, dẫu có khó khăn, dẫu còn vất vả, trăn trở với những điều còn đang dang dở, với những bất công đâu đó, thì vẫn tự nhủ với lòng mình rằng, mình còn may mắn hơn rất nhiều so với những người đã khuất, may mắn hơn những người lính đến khi chết vẫn chưa một lần được làm đàn ông.
Tin tức khác
- 70 NĂM, DẤU ẤN TRUNG ĐOÀN (15-08-2019)
- NGƯỜI ANH HÙNG MƯỜNG PỒN (22-07-2019)
- E174 CHIẾN ĐẤU TẠI LONG KHỐT- HUYỆN VĨNH HƯNG 1972 - 1975 (03-05-2019)
- TRẬN MỞ MÀN (07-04-2019)
- TRUNG ĐOÀN 174 - 70 NĂM XÂY DỰNG CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH (10-05-2019)
- ĐĂNG CUM MÙA MƯA ‘79 (07-04-2019)
- ĐỒNG ĐỘI ƠI - Thơ Trần Thị Hảo (28-02-2019)
- ÔNG THIỆN Truyện ngắn TRẦN THẾ TUYỂN (24-12-2018)