TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN
TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN

TRẬN MỞ MÀN

Nguyễn Vũ Điền d6e174

Cuối tháng 12 năm 1978, cuộc Tổng tiến công trên toàn mặt trận, giải phóng Căm Pu Chia bắt đầu.

Trên hướng Sư 5, các đơn vị nhận lệnh hành quân đánh chiếm tỉnh Kratie, mở rộng tiến công lên phía Bắc, dọc bờ đông Sông Mê Công, bắt tay với Sư đoàn 2 của Quân khu 5, giải phóng tỉnh StungTreng.

Thực hiện mệnh lệnh được giao, từ Chhlong, Trung đoàn Q16 hành quân tiến công dọc trục lộ 7; Trung đoàn 4 vu hồi cánh trái; Trung đoàn 174 vu hồi cánh phải. Ba trung đoàn từ ba hướng hợp điểm tại thị xã Kratie. Các mũi vu hồi bắt đầu nhận lệnh hành quân từ chiều 23/12/1978.

Thay vì phải mang bao tượng gạo, trong cuộc hành quân này, do yêu cầu bí mật và đảm bảo tốc độ, nên bộ đội được phát mỗi người 7 ngày cơm sấy. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy loại lương thực rất lạ này. Đó là thứ gạo sấy sẵn, đóng thành bịch kín 200g, trên thân bịch có một vạch xanh, một vạch đỏ và hướng dẫn khi dùng nước sôi thì đổ nước đến vạch đỏ, dùng nước lã thì đổ đến vạch xanh. Sau khi đổ nước, khoảng 30 phút sau là có thể ăn được.

 Tôi xếp cơm sấy dưới đáy ba lô, bên trên nhét quần áo, tăng, võng, tấm đắp và vài ba thứ lặt vặt. Vậy nhưng ba lô cũng khá nặng, bởi còn rất nhiều thứ lỉnh kỉnh quanh người.

Tôi và Cương Kều được phân công đi máy cho K12 - Đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn. Cương là người Sài Gòn, dân Quận 4, đi lính trước tôi nhưng khi ấy mới 19 tuổi. Dù chỉ kém tôi một tuổi, nhưng chắc thấy tôi vừa đen vừa già, lại đã từng học dở đại học, nên nó rất quý và tôn trọng, cứ một điều anh, hai điều em rất lễ phép.

Trong đội hình hành quân, nó đi trước, tôi khoác súng theo sau. Nhìn dáng nó lòng khòng, cao lêu đêu, da trắng hồng như da con gái, khoác cái ba lô đựng máy PRC.25 với chiếc ăng ten lá lúa được làm bởi những lá thép mềm mại lúc lắc theo nhịp bước, vừa đi vừa sử dụng mật danh liên lạc với tiểu đoàn " Sông Hồng gọi Sông Thao 101. Sông Thao 105/ 05...", rất thành thạo mà tôi thấy ngưỡng mộ, ước ao đến một ngày nào đó được đi máy như nó...

Cả Trung đoàn hành quân suốt mấy ngày đêm liên tục. Để đảm bảo bí mật nên ngay sau khi ổn định đội hình hành quân, các mạng liên lạc được lệnh không hoạt động, tất cả các máy để ở chế độ chờ. Chỉ huy các đại đội liên tục đốc thúc bộ đội tăng tốc. Đội hình dài dằng dặc với hàng ngàn con người lầm lũi bước giữa trời nắng như thiêu như đốt của đại ngàn rừng khộp. Mệt mỏi kinh khủng nên mỗi khi giải lao, từ tướng đến quân, cứ để nguyên ba lô trên vai, ngửa người ra đất, chân duỗi thẳng là giấc ngủ ùa đến một cách bất ngờ.

 Lúc giải lao để ăn cơm, ai cũng như ai, lôi bịch cơm sấy đã trương phềnh bởi thứ nước múc vội ven đường cho vào trước đó, vạch ngược túi, đổ vào chút bột canh rồi dùng thìa xúc mà miệng bã ra chẳng khác gì ăn cơm nguội. Một lần, đang ăn, thấy một con xin tương lẫn trong cơm, tôi dùng thìa xúc lên rồi bỏ nó xuống đất. Lát sau, con xin tương tỉnh dậy, lại bò đi như chưa hề chui vào giữa bịch cơm của lính bao giờ...

Với tôi, vừa rời ghế nhà trường, trở thành người lính chiến thì đây đúng là thử thách đầu tiên được nếm trải. Hôm mới vào trung đội, thấy tôi đi đôi giày ba ta, anh em nói giày này không hành quân được đâu, tôi chẳng quan tâm, bởi nhìn chúng nó đi giày cao cổ, thấy thô thô, quê quê thế nào ấy, đi ba ta như tôi đẹp và có vẻ thư sinh hơn nhiều chứ. Giờ mới thấy chúng nó nói đúng. Mùa khô ở đây nóng như rang, cái đế giày phẳng đét của tôi giờ đây chẳng khác nào cái đít chảo gang, làm cho lòng bàn chân phồng rộp lên và bỏng rát, rất khó chịu. Hơn nữa, cổ giày thấp, nên khi hành quân, đất cát chui đầy vào trong, thỉnh thoảng phải dừng lại, đổ cát ra, rồi lếch thếch chạy theo đội hình. Biết vậy, nhưng, lấy đâu ra giày mà thay bây giờ, đành cứ thế mà chịu đựng.

Nhìn chúng nó đi giày cao cổ mà phát thèm.

Đêm thứ ba, chúng tôi vượt sông Tê, một con sông nhỏ nhưng chảy khá xiết. Tiểu đoàn 25 Công binh của Sư đoàn đã giăng sẵn mấy sợi dây là là trên mặt nước để bộ đội bám vào đó mà bơi qua sông. Chúng tôi gói ghém tất cả những gì có thể ướt vào tấm tăng, buộc túm lại rồi lũ lượt nắm lấy sợi dây, bơi trong dòng nước tối om. Không đèn đóm, không theo đội hình nào nữa bởi không thể nhìn rõ người bên cạnh, ai cũng lúi húi gói ghém đồ đạc, gói xong là túm dây sang sông, thỉnh thoảng lại nghe tiếng gọi nhau í ới, tiếng quẫy đạp trong nước…Lên đến bờ sông, tôi túm dây, lôi bọc tăng lên rồi, nhanh chóng mặc quần áo nhập vào hàng quân.

Có thằng chằng buộc không kỹ, ướt hết cả đồ đạc, lúc khoác ba lô lên vai, nước chảy dưới thành dòng sau lưng, trông thật tội nghiệp. Có thằng ở khẩu đội đại liên để trôi mất chiếc xẻng, cứ ngẩn ngơ vì tiếc. Thằng khẩu đội trưởng vừa đi vừa lẩm bẩm chửi:

- Mẹ kiếp, có cái xẻng đào hầm mà cũng đéo giữ được. Nếu cái ấy không dính vào người mày thì có khi cũng trôi mẹ nó rồi. Ráng chịu nghe con. Tới đây, Pốt nó bắn thì giơ mặt ra mà hứng đạn.

Thằng kia tức quá vặc lại:

- Có cái đéo gì mà nói lắm thế. Mai kia tao lại kiếm cái khác. Lo gì.

Vào chiến trường mới biết, lính tráng, đồng đội thương nhau lắm. Nhưng có mấy thứ mà hễ cứ hở ra là mất, đó là giày, xẻng và thuốc rê. Chẳng ai xấu đâu, nhưng trong cái hoàn cảnh khó khăn này, chẳng kiếm đâu được, mà những thứ đó thì quá cần, quá thiết thực. Túng thì làm liều, nếu đồng đội có biết lại cười xòa bảo thông cảm, thế là xong.

Ngày thứ tư, trời vẫn nắng chang chang. Khoảng 3 giờ chiều, bỗng nghe  tiếng máy bay dọc hướng lộ 7, rồi những tiếng bom nổ rền phía trái đội hình. Lúc ấy cứ nghĩ là máy bay ta ném bom vào đội hình bọn Pốt, nhưng sau đó nghe thông báo máy bay của Pốt ném bom hướng Trung Đoàn Q16 và cao xạ của ta đang bắn trả máy bay địch. 

Ngay sau đó qua hệ thống thông tin, trung đoàn lệnh cho các đơn vị phải tuyệt đối giữ bí mật, bởi trong tình thế bị ta vây ép từ nhiều phía, bọn Pốt điên cuồng chống trả, chúng sử dụng máy bay T28 ném bom vào đội hình hành quân của Q16. Tiểu đoàn cao xạ của Sư đoàn đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 2 máy bay địch và làm hai chiếc khác bị thương. Nhưng rất tiếc là 63 chiến sỹ mới được bổ sung vào Q16 bị hy sinh do bom địch đánh trúng đội hình.

Thật đau xót cho những người lính lần đầu tiên nếm mùi chiến trận. Chiến tranh là thế, biết đâu mà nói trước, phần nhiều do may rủi.

 

Khoảng 5 giờ chiều, tiểu đoàn truyền lệnh sẵn sàng chiến đấu. Các máy thông tin được lệnh lên sóng, bộ phận trinh sát đi đầu đội hình đã gặp địch. Tôi chạy theo Cương bám sát chỉ huy đại đội.

Khi vừa bố trí xong đội hình thì tiếng súng đã rộ lên phía trước. Đầu tiên là những tiếng AK điểm xạ tạch tạch, tiếng B40, B41 ùng uỳnh bên cánh phải, rồi đồng loạt các hướng đều có tiếng súng nổ. Địch đang án ngữ phía trước đội hình.

 Khẩu cối 82 trong đội hình K12 đã lấy phần tử bắn nhưng vẫn đang chờ lệnh bắn. Thằng Cương dịch mật danh nói lớn:

 - Anh Tiệp ơi, tiểu đoàn yêu cầu bắn một viên để lấy phần tử. Cự ly 800.

 Một viên đạn được đưa vào nòng, tiếng đề pa " toóc" vang lên. Vài giây sau, nghe tiếng "oàng" phía xa. Đạn nổ tốt.

Sau khi chỉnh phần tử bắn xuống 600m, tiểu đoàn tiếp tục ra lệnh:

- Bắn tiếp 3 viên.

Hai viên đạn được bắn đi với những tiếng nổ khô khốc phía trước.

Tới viên thứ ba, tôi nghe rõ tiếng "phì" như tiếng máy nén xả hơi, rồi nhìn thấy viên đạn bay lên, nhưng rơi ngay cánh rừng phía trước khẩu cối khoảng 100m. May thay viên đạn không nổ, chứ nếu nổ, anh em bộ binh ở tiền duyên chắc chắn sẽ có thương vong.

Thấy có trục trặc phía khẩu cối, anh Tuyết, đại đội trưởng K12 từ phía khẩu DKZ.75 chạy sang, mấy anh em xúm lại kiểm tra, tìm nguyên nhân sự cố.

 Đúng lúc ấy, thằng Cương truyền đạt tiếp lệnh của tiểu đoàn:

- Bắn cấp tập 5 quả.

Nghe thấy câu bắn cấp tập, tôi sướng quá, chạy về phía khẩu cối để xem họ bắn thế nào, cảm giác giống như hồi nhỏ chạy theo người lớn đốt pháo tết.

Thằng Cương thấy thế, gọi to:

- Anh Điền ơi, lùi lại, đừng lên đó, bọn Miên nó phản pháo giỏi lắm đấy.

Tôi nghe nó, lùi lại nằm sấp xuống đất, ngang chỗ Cương nằm, cách khẩu cối khoảng 40m, ngay phía sau một gồ đất, mắt vẫn nhìn chăm chăm về phía khẩu cối.

Chỗ khẩu cối có 5,6 người đang đứng chụm lại và bắt đầu thả đạn. Từ chỗ nằm, mắt tôi dán chặt vào đầu nòng khẩu cối, lẩm bẩm đếm.

Viên thứ nhất, viên thứ hai...tốt.

Đến viên thứ ba, khi quả đạn vừa thả khỏi tay, thì bỗng "Oành". Một tiếng nổ rất lớn ngay tại bàn đế cối, khói bụi mù mịt....Khi khói tan, không còn thấy ai đứng nữa. Anh em bộ đội từ các hướng chạy lại, nòng khẩu cối 82, to như cái ống bương bị tiện đứt làm đôi, vỡ ra thành 4 mảnh cong như đoạn rau muống chẻ ngâm nước. Xung quanh đó là những thân người bất động, những mảnh áo, quần và ruột gan, máu me vương vãi khắp nơi.

Tôi nghe rõ tiếng rên rỉ của ai đó trước khi tắt hẳn. Lại nhìn thấy một thân người nằm sấp, bụi đất phủ kín, giữa lưng anh, một mảng thịt to bằng hai bàn tay bay đi đâu mất, cái cuống phổi đưa lên, đưa xuống rồi dừng hẳn...

Mắt tôi đờ dại vì sợ. Một cảm giác thật khó tả. Hóa ra chiến tranh là thế này ư ? Từ trước đến giờ, tôi chỉ biết đến chiến tranh qua phim ảnh, đó là những cảnh ta và địch dàn thành trận tuyến rõ ràng, rồi pháo bắn, đạn nổ rầm trời, bộ đội ta ào ào xông lên, trên tay là những khẩu súng bộ binh đang nhà đạn, miệng hô « Xung phong » đồn bốt của địch cháy đỏ rực, quân địch chết như ngả rạ và bộ đội ta cắm cờ chiến thắng…

Vậy mà không phải thế. Lần đầu tiên ra trận, tôi chưa nhìn thấy một thằng địch nào, cũng chưa cảm nhận thấy sự nguy hiểm của bom đạn, nhưng đã tận mắt chứng kiến anh em đồng đội hy sinh ngay bên cạnh mình, những cái chết thật thê thảm mà mình được trực tiếp chứng kiến. Cú sốc quá lớn khiến tôi cảm thấy ghê sợ.

 Mọi người xúm lại băng bó vết thương cho mấy anh em bị thương, nhặt phần thi thể của các đồng chí hy sinh gói vào túi tử sỹ, khiêng về phía sau.

Ai đó nói với tôi :

- Túm tay vào đây.

Tôi nhắm mắt nhắm mũi túm lấy bàn tay người chiến sỹ đang nằm dưới đất để cho ai đó băng bó vết thương cho anh. Mắt anh nhắm nghiền, cơ thể mềm oặt, đôi bàn tay lạnh ngắt như bàn tay thần chết trong các câu chuyện cổ tích tôi hay đọc ngày nhỏ khiến tôi rờn rợn...Hai chiếc võng được mang đến, chúng tôi đặt người chiến sỹ kia và anh Tuyết lên hai chiếc võng để vận tải đưa về phía sau.

Khi vận tải khiêng anh Tuyết đi ngang qua, mấy anh em vạch võng ra để chào anh, anh vẫn tỉnh táo chào lại mọi người, rồi đột nhiên anh bảo:

- Thằng nào bắt hộ tao con kiến vàng ở lưng với, nó đốt tao đau quá...

Mọi người nâng anh lên, xoa xoa vào lưng để giết con kiến cho anh. Tôi ngạc nhiên bởi tại sao anh không thấy đau ở vết thương mà lại biết con kiến đang đốt ở lưng?

Lúc chiếc võng đã đi xa, tất cả chúng tôi vẫn sững sờ, không hết bàng hoàng bởi sự mất mát quá lớn và vô cùng đột ngột ngay trong trận đánh mở đầu chiến dịch. Ai cũng lo cho anh Tuyết, bởi theo kinh nghiệm, khi bị thương vào đầu, nếu mê man, bất tỉnh còn có hy vọng sống, chứ tỉnh táo thế này, dễ chết lắm. Và điều mọi người lo lắng đã đúng, Anh Tuyết, Đại đội trưởng K12, cùng 2 chiến sỹ của Khẩu đội cối 82 đã hy sinh ngay trong trận đánh đầu tiên của chiến dịch giải phóng Kratie.

Sau này mới biết, số đạn cối ta bắn khi đó là đạn chiến lợi phẩm thu được trong trận đánh ở ChhLong. Có thể địch đã cố tình bỏ lại và cài ngòi nổ tức thì vào quả đạn nên mới xảy ra chuyện đó. Anh Tiệp, Chính trị viên Đại đội 12, một chuyên gia gắn bó với cối từ thời đánh Mỹ cũng chưa thấy xảy ra như thế bao giờ.

Còn tôi thì thật hú vía. Nếu Thằng Cương không cản tôi, nó không dọa là địch phản cối thì tôi đã chạy đến chỗ khẩu cối từ lâu rồi. Và rất có thể, tôi cũng sẽ nằm lên một chiếc võng, được khiêng ngược về phía sau ngay trong trận đánh này rồi.

Cảm ơn Cương nhé và cảm ơn tất cả các đồng đội đã cho tôi có trải nghiệm bổ ích ngay trong trận đánh đầu đời.

 

 

         

 

 

Tin tức khác

Tin mới
Hoạt động

Quảng cáo

backtop